Từ những năm đầu của thế kỷ XX, khi đất nước đang chìm đắm trong đêm tối của chế độ thuộc địa, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã cháy bỏng khát vọng “Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài” để tìm con đường cứu nước, cứu dân. Với nhiệt huyết cứu nước, trí tuệ thiên tài, nhãn quan chính trị sắc bén và được kế thừa các giá trị yêu nước truyền thống của dân tộc Việt Nam, sau gần 10 năm rời bến cảng Nhà Rồng, tháng 7 - 1920, Người đã đến được với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, khẳng định đi theo con đường cách mạng vô sản để giải phóng dân tộc. Tháng 12 - 1920, tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Sự kiện đó cũng mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn phát triển mới - “giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa Nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Từ đây, Người trăn trở tìm đường về nước để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong phong trào cách mạng Việt Nam. Nhưng những hoạt động của Người đã bị chính quyền thực dân theo dõi, kiểm soát gắt gao, như trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản ngày 18-2-1930, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Đã hai lần tôi cố gắng về An Nam, nhưng phải quay trở lại. Bọn mật thám và cảnh sát ở biên giới quá cẩn mật, đặc biệt là từ khi xảy ra vụ An Nam “Quốc dân Đảng” (Cuộc Khởi nghĩa Yên Bái của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng). Trong quá trình hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc luôn theo dõi sát sao tình hình trong nước để tìm thời điểm thích hợp trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Đầu năm 1940, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển mau chóng. Sự kiện Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức (tháng 6 - 1940) theo Người nhận định “là thời cơ thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước để tranh thủ nắm thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”.
Cao Bằng, mảnh đất “phên dậu” phía Đông Bắc của Tổ quốc, chính là sự lựa chọn của Người. Với tầm nhìn chiến lược của một vị lãnh tụ thiên tài, Người đã phát hiện Cao Bằng là nơi hội tụ đủ cả “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” để xây dựng căn cứ địa cách mạng của cả nước. Khi chính thức quyết định chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng đầu tiên, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận định: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn có thể giữ”.
Với một sự tính toán kỹ lưỡng liên quan tới triển vọng của phong trào cách mạng cả nước, ngày 28-01-1941 (tức ngày mùng hai tết Tân Tỵ), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vượt qua mốc 108 (nay là cột mốc 675) biên giới Việt Nam - Trung Quốc thuộc địa phận xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Đây là thời khắc vô cùng trọng đại đối với lịch sử cách mạng Việt Nam. Từ đây, Pác Bó - Hà Quảng - Cao Bằng đã trở thành “đại bản doanh” của cách mạng, trở thành “cội nguồn”, “chiếc nôi của cách mạng Việt Nam”.
Ngày 28.1.1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Trung Quốc về nước và ở tại Pác Bó (Cao Bằng),
trực tiếp lãnh đạo cách mạng (Tranh tư liệu TTXVN)
Chỉ bốn tháng sau khi về nước, từ ngày 10-5 đến ngày 19-5-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 của Đảng tại Khuổi Nậm, Pác Bó, Cao Bằng. Dưới sự chủ trì của Người, Hội nghị đã kiện toàn cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, trên cơ sở đó kiện toàn các cấp bộ đảng từ Xứ ủy đến các cấp bộ đảng ở các địa phương - đây là nhân tố hàng đầu quyết định đường hướng của cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, Hội nghị xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ cấp thiết, hàng đầu của cách mạng Việt Nam lúc này: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Lán Khuổi Nậm ở Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, Cao Bằng, nơi diễn ra
Hội nghị Trung ương Đảng cộng sản Đông dương lần thứ VIII (5/1941) quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh.
Theo sáng kiến của Người, trên tinh thần dân tộc tự quyết, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng để tập hợp lực lượng giải quyết nhiệm vụ cách mạng trong phạm vi của dân tộc mình. Ở Việt Nam, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, nhằm đoàn kết, tập hợp các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, “cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước: Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do”. Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh ra đời thay cho Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương và đặt ra nhiệm vụ giúp đỡ các dân tộc Lào và Campuchia thành lập mặt trận dân tộc của nước mình. Đây là một chủ trương hết sức sáng suốt của Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy sự phát triển phong trào cách mạng giải phóng dân tộc mà đỉnh cao là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Khẩu hiệu của Việt Minh kêu gọi đồng bào gia nhập Việt Minh và đoàn kết đánh đuổi Nhật - Pháp.
Người đã cùng Trung ương Đảng hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam và phát triển đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, tập hợp lực lượng cùng toàn Đảng, toàn dân hướng vào mục tiêu cao nhất là giành độc lập dân tộc và chính quyền về tay Nhân dân; cùng với đó là việc củng cố tổ chức, hệ thống Đảng từ Trung ương đến địa phương, tập hợp các lực lượng tham gia vào phong trào đấu tranh cách mạng. Những quyết định đúng đắn đó đã được toàn Đảng và toàn dân thực hiện, dấy lên cuộc vận động giải phóng dân tộc sôi nổi, rộng khắp cả nước, dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ Nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, làm thay đổi vận mệnh của dân tộc và thân phận của người dân Việt Nam: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Theo lời hiệu triệu của Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã nhất tề đứng dậy
tổng khởi nghĩa giành chính quyền, 8/1945.
Với khát vọng cháy bỏng giải phóng dân tộc, từ mùa Xuân năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đây là một sự kiện lịch sử quan trọng, kết thúc chặng đường dài 30 năm hoạt động đầy cam go, khó khăn, hiểm nguy, thử thách của Người ở nước ngoài; đồng thời mở ra thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam, thời kỳ chuẩn bị về mọi mặt, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc đã đáp ứng đòi hỏi khách quan của phong trào cách mạng trong nước và sự phát triển của tiến trình lịch sử đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc Việt Nam. Với những hoạt động khẩn trương, tích cực và đầy sáng tạo, Người đã cùng với Trung ương Đảng đưa ra những quyết sách nhằm thúc đẩy bánh xe lịch sử của cách mạng Việt Nam phù hợp với xu thế tiến bộ của lịch sử. Như một tờ báo nước ngoài đã nhận định về Người: “Con người đó đã đóng một vai trò lịch sử vô cùng to lớn trong vòng hơn 50 năm nay. Người đã làm lay chuyển hệ thống thực dân. Người đã góp phần biến đổi bản đồ thế giới. Người đã đẩy bánh xe lịch sử theo hướng tiến bộ”. Bên cạnh đó, quyết định của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khi trở nước cũng là cơ sở quan trọng sau này để Việt Nam củng cố các mối quan hệ với các nước Đồng minh chống lại chủ nghĩa phát xít cũng như tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của nhiều nước đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam.
Không những thế, những sự kiện gắn liền với hoạt động của Người ngay sau khi trở về Tổ quốc đã để lại những bài học vô cùng quý giá. Trong đó, đặc biệt là bài học về công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trước yêu cầu, nhiệm vụ mới; bài học về xây dựng thế trận lòng dân, tuyệt đối trung thành, ủng hộ, bảo vệ Đảng và cách mạng thành công; bài học về tập hợp, xây dựng lực lượng cách mạng trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Những bài học đó vẫn có giá trị và ý nghĩa đặc biệt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay.
Kỷ niệm 80 năm Ngày Bác Hồ về nước (28-1-1941 - 28-01-2021), 80 năm Ngày thành lập Mặt trận Việt Minh (19-5-1941 - 19-5-2021), 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn ra trong không khí hào hùng, phấn khởi cả nước tưng bừng đón chào thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, chuẩn bị tiến hành cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kì 2021 - 2026. Đây là dịp để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiếp tục tôn vinh cuộc đời, sự nghiệp cách mạng và những cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam, từ đó khẳng định ý nghĩa, giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay. Qua đó nhằm giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng, truyền thống lịch sử, thể hiện lòng tự hào, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, như mong muốn của Bác Hồ kính yêu.
Hạ Long, ngày 16/5/2021
Chi bộ 5 - Đảng bộ Trường THPT chuyên Hạ Long
Tác giả: CHUYÊN HẠ LONG