HỒI KÝ VỀ LỚP CHUYÊN TOÁN NĂM 1971 - 1974 (Nguyễn Thị Kim Dung)
Năm 1965, Ty giáo dục Tỉnh Quảng Ninh thành lập Lớp toán đặc biệt đặt tại trường cấp 3 Yên Thọ, huyện Đông Triều (nay là trường THPT Hoàng Quốc Việt tại phường Mạo Khê, thị xã Đông Triều), do thầy Trần Mạnh Hùng làm giáo viên chủ nhiệm. Lớp toán đặc biệt niên khóa 1965–1968 là khóa đầu tiên của hệ chuyên Tỉnh Quảng Ninh. Sau đó, do nhiều trở ngại khác nhau, hệ chuyên bị gián đoạn 6 năm. Đến năm 1971, Lớp chuyên toán của chúng tôi được thành lập, là khóa thứ 2 của hệ chuyên Tỉnh Quảng Ninh. Sau hơn 2 tháng học chương trình lớp 8 phổ thông ở các trường cấp 3 trong Tỉnh, tháng 11/1971 chúng tôi được triệu tập về học lớp chuyên toán, địa điểm tại trường cấp 3 Hòn Gai. Lớp có 18 bạn (15 nam và 3 nữ): 7 bạn từ trường cấp 3 Hòn Gai (Nguyễn Thị Kim Dung; Nguyễn Việt Dũng; Vũ Tự Lập; Chu Ngọc Thành; Lê Văn Thuận; Trần Trọng Tiến; Nguyễn Thị Tĩnh); 5 bạn từ trường cấp 3 Cẩm Phả (Trần Hai Chín; Đỗ Mạnh Cường; Nguyễn Công Minh; Yên Thế Hòa; Sần A Sinh); 2 bạn từ trường cấp 2; 3 Đầm Hà, nay là trường cấp 3 Đầm Hà (Sì Soóng Cắm; Chu Viết Luân); 1 bạn từ trường cấp 3 Minh Hà, huyện Yên Hưng, nay là thị xã Quảng Yên (Vũ Trọng Nga); 1 bạn từ trường cấp 3 Hoành Bồ (Hoàng Thị Hà); 1 bạn từ trường cấp 3 Uông Bí (Ngô Văn Hùng) và 1 bạn từ trường cấp 3 Yên Thọ, Đông Triều (Đỗ Đức Sâm). Các bạn có gia đình ở quanh thị xã Hồng Gai đều về nhà riêng ở, còn 10 bạn nhà xa như: Cẩm Phả, Đầm Hà, Yên Hưng (Quảng Yên), Uông Bí, Mạo Khê phải ở ký túc xá.
Ký túc xá của lớp đi từ cổng trường cấp 3 Hòn Gai vào, bên phải là khu gia đình các thầy, cô giáo, qua đó có con đường đất đỏ lên đồi là ký túc xá của Lớp chuyên toán năm 1971 (nhà 2 gian, mái tranh nứa, vách đất, nền nhà bằng đất sét được đầm phẳng). Ở ký túc xá có 10 bạn nam, lúc đầu, chưa có giường, các bạn phải nằm tạm sạp bằng tre nứa đập dập. Vài tuần sau, ký túc xá được chuyển sang bên trái đồi (đứng từ cổng nhìn vào) và mỗi bạn có 1 giường cá nhân. Mọi thứ đều đơn sơ, nhưng đó là sự quan tâm, nỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục và phát triển nhân tài toán học thời bấy giờ. Chiến tranh gian khổ, cả nước phải dồn tất cả chi viện cho tiền tuyến, vậy mà mỗi học sinh lớp chuyên toán được trợ cấp 9 đồng/tháng (tạm đủ bữa ăn - thời đó gạo sổ bao cấp 0,4 đồng/kg).
Lớp chuyên toán của chúng tôi trực thuộc sự quản lý của Ty giáo dục, nhưng đặt tại trường cấp 3 Hòn Gai, nên được coi như một lớp của trường, vì vậy được đặt tên theo thứ tự trong trường là lớp 8H. Từ cổng trường đi vào, phòng học của lớp tôi ở tầng 1, bên tay trái, phòng cuối cùng của Tòa nhà xây 2 tầng - Trường cấp 3 Hòn Gai. Học được vài tháng, tại phòng học này, lớp tôi đã tổ chức chia tay bạn Cắm và Luân lên đường nhập ngũ, hôm đó Dung hát tặng các bạn một bài, giờ chẳng nhớ tên bài hát là gì, nhưng trong đó có câu: ”đánh tan giặc Mỹ mới về quê hương...”, Dung hát câu này lặp lại 2 lần. Bài hát kết thúc, thầy Lê Đức Tình – chủ nhiệm lớp, quay về phía bạn Cắm và Luân nói: “Bạn Dung nhắn nhủ Cắm và Luân: Đánh tan giặc Mỹ mới về quê hương đấy”, cả lớp vỗ tay!
Tháng 4/1972, đế quốc Mỹ tăng cường ném bom tàn phá miền Bắc, trọng điểm là Hà Nội, Hải Phòng và một số mục tiêu quan trọng khác, 2 bạn Cắm và Luân chia tay vào bộ đội, lớp chỉ còn 16 bạn, nên được chuyển sang phòng học khác nhỏ hơn. Phòng học của lớp tôi mái lợp tranh nứa, vách đất, cùng phía với phòng học cũ ở tòa nhà xây 2 tầng, nhưng cách khoảng chục mét, đi qua một rãnh nước nhỏ chảy từ trên sườn núi xuống. Học ở đây khoảng 1 tháng chúng tôi phải sơ tán khỏi Thị xã Hồng Gai. Chiều mùng 10/5/1972, giặc Mỹ điên cuồng dội bom hủy diệt Thị xã: nhà cửa đổ nát, “Cầu cao” sập, gãy cong xuống lòng đường, nhà máy Điện cột 5 bị tàn phá nặng nề, toàn Thị xã không điện, không xe cộ đi lại, tan hoang những đống đổ nát... tất cả đều đi sơ tán, chỉ còn một số người có trách nhiệm ở lại hoặc chưa kịp sơ tán, phải trú ẩn trong hang đá của núi Bài Thơ. Thị xã liên tục nghe tiếng kẻng báo động, tiếng loa phát ra từ núi Bài Thơ: “Máy bay địch đang đi vào Thị xã chúng ta...”. Hết báo động, tiếng loa báo: “Máy bay địch đã đi xa, mọi sinh hoạt trở lại bình thường...”, mọi người lật đật từ hang đá đi ra, lo cơm nước cho bản thân, gia đình và giúp dân quân tự vệ cáng các chiến sĩ bị thương khi tham gia bắn máy bay Mỹ vào bệnh viện ở trong hang đá... (tôi đã từng trú ẩn trong hang - bệnh viện này và nghe tiếng kêu rên rất đau lòng!). Tháng 5/1972 trường cấp 3 Hòn Gai được nghỉ hè sớm, chỉ có lớp 10 phải sơ tán để tiếp tục học thi tốt nghiệp và chuẩn bị cho kỳ thi đại học; lớp chúng tôi vì khai giảng trễ hơn 2 tháng so với chương trình, nên hè năm 1972 phải học bù cho hết chương trình chuyên toán lớp 8.
Lớp chuyên toán sơ tán vào khu Suối Váo (Hoành Bồ). Cả lớp ở trong nhà kho của một Hợp tác xã. Nhà kho có 2 gian: thầy Tình (chủ nhiệm lớp) và các bạn nam ngủ, nghỉ ở gian lớn; 3 bạn nữ ở gian nhỏ. Bàn ghế được kê ở hiên nhà kho để học (lớp học); đầu hồi của nhà kho là bếp nấu đồ ăn. Trước nhà kho là sân xi măng, chạy qua sân là mấy cái hầm trú ẩn chúng tôi đã đào sẵn để khi nghe tiếng máy bay Mỹ “ì ì...” từ xa là chạy xuống cho mau và đậy nắp hầm bện bằng rơm lại cho kín. Học tập chủ yếu vào ban ngày, không có điện, nhưng đèn dầu cũng không được dùng (buổi tối máy bay Mỹ dễ phát hiện mục tiêu có ánh sáng), khi thật cần thiết, muốn thắp đèn dầu phải vặn nhỏ nhất có thể, ở trong nhà và lấy giấy chụp lên trên bóng đèn, rồi che xung quanh cho kín, ánh sáng chỉ đủ để đọc 1 quyển sách. Cuối tháng 6/1972 lớp tôi được nghỉ hè, 16 đứa tự lo phương tiện đi về trong tiếng gầm rú của bom đạn và máy bay Mỹ. Sau này Thành kể lại: trước khi về, các bạn nam tập trung thu dọn đồ đạc, Tiến nói với mọi người: “Hôm nay về thì đông đủ, chẳng biết hôm trở lại trường có đầy đủ không?”. Tiến đi xe đạp về Hồng Gai, còn Thành đi xe đạp về Hà Tu. Mấy bạn ở Cẩm Phả, Hà Tu không có xe đạp, rủ nhau đi bộ từ Suối Váo về Hà Tu, nửa đêm đến Nhà máy Điện cọc 5, bị tự vệ Nhà máy chặn lại hỏi, sau đó dặn dò: “Phải đi ở giữa đường, cẩn thận, không lại đụng phải bom chưa nổ!”. Đến Hà Tu, các bạn nhà Cẩm Phả nghỉ lại nhà bạn Lập, sáng hôm sau ra đường vẫy xe đi tiếp về Cẩm Phả.
Khoảng đầu tháng 8/1972, lớp chuyên toán chúng tôi (là lớp 9D) được lệnh sơ tán cùng trường cấp 3 Hòn Gai vào Công Kêu (Suối Lại). Khi tập trung lớp, tôi nghe thầy giáo báo tin: “Tiến mất rồi, bom Mỹ rơi trúng cửa hang trú ẩn của gia đình Tiến”. Tôi bàng hoàng, thương tiếc! Tiến là hàng xóm ở cùng phố Bái Tử Long với tôi. Lần cuối cùng nói chuyện với Tiến là ở Suối Váo, sau khi Tiến về thăm nhà, lúc tôi đang ngồi bên cạnh bếp nấu đồ ăn, Tiến ngồi xuống nói: “Dung ơi, tao thấy chú mày về đấy!” (Chú tôi làm ở Hà Nội, về thăm vợ – là dì tôi làm ở Hồng Gai). Tiến điềm đạm, ít nói, trước khi vào lớp chuyên toán, Tiến học cùng lớp 8C trường cấp 3 Hòn Gai với tôi. Tuy không thân nhau, nhưng Tiến hay giúp đỡ tôi, có lần đi học muộn, vừa đi vừa chạy trên đường, thấy vậy, Tiến dừng xe đạp, nói: “Dung ơi, lên xe tao đèo một đoạn!”, rồi Tiến chở tôi vào tận sân trường (hồi đó, nam nữ cách xa). Có lần nghỉ học, cần chép lại bài, Tiến đã nhờ em gái của mình sang mượn vở của tôi. Tiến mất đi, lớp tôi chỉ còn 15 bạn sơ tán đến Công Kêu - nơi đó rừng lim rậm rạp, không dân cư. Toàn trường tập trung dựng lán dọc theo con suối lớn gọi là Suối Lại. Chúng tôi đi bộ vào rừng cách đó khoảng 1 cây số để chặt cây gỗ, tre, nứa về làm lán và sạp để nằm ngủ, công cụ làm là cuốc, xẻng, dao. Mỗi người một việc, cảm ơn các bạn nam, những đôi bàn tay chỉ quen cầm bút đã hì hục đào, xúc, chôn cột, mầy mò buộc cột, kèo dựa vững vào nhau, rồi lợp mái, hình thành lán che nắng, che mưa cho cả lớp ở. Lán rộng khoảng 18 m2, không vách, không cửa, nắng, gió lùa vào tứ phía. Xong lán, chúng tôi làm 3 sạp để nằm ngủ (giường tự chế). Từ đường bước vào lán, bên phải là chỗ ngủ của 12 bạn nam (2 dãy giường, mỗi góc một dãy); bên trái lán, góc trong cùng là nơi ngủ của 3 bạn nữ, góc ngoài là chỗ để đồ đạc, dụng cụ mang theo dùng... Giường nam cách giường nữ khoảng 1 mét, nằm đối đầu với nhau để không ai nhìn thấy ai, giữa các giường không có che chắn. Lúc đầu, tôi cảm thấy ái ngại, nhưng ai cũng thấm mệt, trời đã sập tối, có chỗ ngủ ngay đêm đầu tiên giữa rừng thế này là quý rồi. Ngày đó và cho đến bây giờ, tôi vẫn rất trân trọng, quý mến sự hồn nhiên, vô tư của tuổi học trò thuở ấy, cả lớp tôi đã cùng ăn uống, ngủ nghỉ trong lán đó bình an, vô sự! Lán ở làm xong, chúng tôi làm lán học. Lán học làm xong, chưa học được buổi nào thì có lệnh chuyển về trường cấp 3 Hoành Bồ.
Cuối tháng 8/1972, các bạn lớp tôi đi trên một chiếc thuyền gỗ qua Vịnh Cửa Lục vào Hoành Bồ. Lớp tôi được ở trong Trường cấp 3 Hoành Bồ tại Thị trấn Trới. Trong thời gian chờ chuẩn bị khai giảng năm học mới, 3 bạn Thành, Thuận, Lập xin phép về nhà ăn tết độc lập mùng 2/9. Các bạn dậy từ 5h sáng, đi bộ từ trường cấp 3 Hoành Bồ vào xã Lê Lợi, qua xã Thống nhất, rồi bơi qua sông sang bờ Công Kêu - Cái Đá. Từ đó đi tiếp về Hà Tu (nơi gia đình các bạn sơ tán). Sau mùng 2/9 các bạn nhờ xe của anh trai bạn Thuận trở lại trường. Học ở trường cấp 3 Hoành Bồ khoảng gần 1 tháng lớp tôi được lệnh sơ tán tiếp.
Cuối tháng 9/1972, lớp tôi chuyển địa điểm sơ tán vào Đồng Vang - Sơn Dương - Hoành Bồ, nơi đây rừng rậm rạp, nhiều muỗi và vắt. Con vắt bám ở các cành cây, cách xa vài mét nó có thể búng vào người để hút máu, giống như đỉa, nhưng thân hình nó nhỏ hơn. Ở Đồng Vang, lớp tôi lại tiếp tục đi bộ vào rừng sâu chặt cây gỗ, tre, nứa... rồi hành trình làm lán ở, làm sạp để nằm, làm lán để học, tương tự như khi ở Công Kêu. Lần này lớp tôi dựng 3 lán riêng biệt: nam ở 2 lán, nữ ở 1 lán. Lán học ở cách không xa lán ở, nhưng phải đi qua cây cầu ghép 3 cây gỗ, bắc qua con suối, mỗi lần đi chóng mặt, sợ ngã xuống suối! Lương thực để ăn là gạo mục hoặc ngô răng ngựa; thức ăn là muối mỏ, hạt to đùng, phải lấy đá đập nhỏ ra cũng phải bằng đầu ngón tay; rau ăn là rau rừng, lúc có, lúc không. Đúng tuổi đang lớn, nhưng đói, rét, gày quắt lại, không sao lớn nổi! Thế rồi cũng phải học, còn hơn bao nhiêu các bạn khác, đặc biệt ở Hà Nội bị B52 Mỹ rải bom 12 ngày đêm liền (18/12/1972 - 30/12/1972), chết chóc, tang thương! Sau khi Hiệp định Paris được ký kết (27/1/1973), Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, lớp tôi thu dọn đồ đạc trở về trường cấp 3 Hòn Gai học tiếp học kỳ I lớp 9. Sang đầu học kỳ II lớp 9, sĩ số lớp tôi còn 14 bạn, 1 bạn chuyển về lớp phổ thông trường cấp 3 Hòn Gai. Kết thúc lớp 9, chúng tôi lại tiếp tục chia tay 2 bạn sang học lớp phổ thông của trường cấp 3 Hòn Gai. Lớp 10 chuyên toán (10D), còn 12 bạn, học ở nhà mái tranh nứa, vách đất, trên nền đất mới, gần phòng học cũ, sát với đường đất đỏ. Ký túc xá của lớp cũng được chuyển từ trên đồi xuống gần phòng học, mọi thứ đều hết sức tối giản, vì miền Bắc vừa bị tàn phá nặng nề, miền Nam vẫn còn chiến tranh khốc liệt. Hè năm 1974, buổi cuối cùng chúng tôi gặp nhau tại lớp học, Dung đã đi hái những cành hoa phượng vĩ đỏ thắm về cắm quanh vách lớp và đặt nó trên bàn học, tạm biệt lớp 10 chuyên toán thân yêu!
Chúng tôi tỏa đi khắp nơi, 46 mùa xuân qua đi kể từ mùa hè năm 1974, nay quay về tụ họp kỷ niệm 55 năm thành lập hệ chuyên Tỉnh Quảng Ninh (1965 – 2020) và 30 năm thành lập trường Trung học phổ thông chuyên Hạ Long (1990 – 2020). Kính chúc tất cả các thầy cô của trường có sức khỏe dồi dào, nhiều niềm vui và hạnh phúc! Chúc hệ chuyên của Tỉnh Quảng Ninh ngày càng ươm nhiều hạt giống nhân tài cho đất nước! Chúc tất cả các bạn là học trò của hệ chuyên Tỉnh Quảng Ninh khỏe mạnh, hạnh phúc, thành đạt và có nhiều đóng góp, cống hiến cho Tổ Quốc nói chung và cho Tỉnh Quảng Ninh nói riêng! Từ đáy lòng mình, tất cả chúng em luôn ghi nhớ công ơn to lớn của các thầy cô đã dạy dỗ chúng em thành người có ích cho gia đình và xã hội! Những kiến thức mà các thầy cô đã truyền đạt cho chúng em đã, đang và sẽ mãi mãi là nền tảng hình thành tính cách - tư duy lô gíc trong cuộc sống của mỗi người! Cảm ơn nhà trường, cảm ơn các thầy cô kính yêu, chúng em luôn khắc sâu trong trái tim mình hình ảnh của các thầy cô và mái trường năm xưa!






















